Di sản bao gồm các di chỉ, di tích lịch sử hay về các danh lam thắng cảnh thuộc về quốc gia đó được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc) công nhận và quản lý. Di sản thế giới của Việt Nam có đủ cả ba loại hình như: di sản thiên nhiên, di sản văn hóa và di sản hỗn hợp. Chúng đều được UNESCO công nhận.
Bên cạnh các danh hiệu của UNESCO, di sản thế giới là danh hiệu danh giá nhất và lâu đời nhất. Hiện nay, Vịnh Hạ Long và Quần đảo Cát Bà đang được đề cử xem xét vào kì họp thứ 45 năm 2022.
Việt Nam hiện tại có 8 di sản thế giới được UNESCO công nhận, 5 trong số đó là di sản văn hoá, 2 là di sản tự nhiên và 1 di sản hỗn hợp.
- Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, Vịnh Hạ Long là những di sản thiên nhiên.
- Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Khu di tích trung tâm [Hoàng thành Thăng Long] và Thành nhà Hồ là những di sản văn hoá.
- Quần thể danh thắng Tràng An là Di sản hỗn hợp duy nhất tại Việt Nam và Đông Nam Á, và là một trong số ít 38 di sản hỗn hợp được UNESCO công nhận.
Sơ lược về 5 điểm di sản văn hóa thể giới thuộc về Việt Nam:
Các di sản này không chỉ là minh chứng vè một đất nước Việt Nam xinh tươi, mang vẻ đẹp huyền bí, đa dạng về phong cảnh thiên nhiên, phong phú về bản sắc văn hóa dân tộc, có bề dày lịch sử lâu đời mà cha ông đã tạo nên mà còn là những điểm đến thu hút nhiều du khách trong nước và quốc tế đến tham quan mỗi năm.
Du lịch ở nước ta ngày càng phát triển theo hướng tích cực và thu hút khách tham quan trong và ngoài nước. Đặc biệt là những địa điểm du lịch được UNESCO công nhận. Trong bài viết này cùng nhau tìm hiểu những di sản văn hóa Thế Giới của nước ta nhé!
Di sản văn hóa thế giới gồm:
- Di tích kiến trúc (monuments): các công trình kiến trúc, các công trình điêu khắc và hội họa kiến trúc, các bộ phận hoặc kết cấu có tính chất khảo cổ học, các bi ký, các hang động cư trú và những bộ phận kết hợp, mà xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật hoặc khoa học là có giá trị nổi tiếng toàn cầu.
- Nhóm công trình xây dựng (groups of buildings): các nhóm công trình riêng lẻ hoặc liên kết mà, do tính chất kiến trúc, tính chất đồng nhất hoặc vị thế của chúng trong cảnh quan, xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật hoặc khoa học là có giá trị nổi tiếng toàn cầu.
- Các di chỉ (sites): các công trình của con người hoặc công trình kết hợp giữa con người và thiên nhiên, cũng như các khu vực có các di chỉ khảo cổ học mà xét theo quan điểm lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân học là có giá trị nổi tiếng toàn cầu.
1. Quần thể di tích Cố đô Huế:
– Tháng 12 năm 1993, quần thể di tích cố đố Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa đầu tiên của Việt Nam. Chúng nằm dọc hai bên bờ sông Hương và một số vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế.
– Từ năm 1802 đến 1945, Huế là kinh đô của nước Việt Nam thống nhất dưới sự trị vì của 13 đời vua nhà Nguyễn. Cũng vào thời gian này, tại đây đã hình thành các công trình kiến trúc lịch sử văn hóa có giá trị như kinh thành Huế, khu Đại Nội (có 253 công trình), 7 cụm lăng tẩm của 9 vị vua Nguyễn, đàn Nam Giao, Hổ Quyền, điện Hòn Chén. Quần thể Di tích Cố đô Huế là ví dụ điển hình của một kinh đô phong kiến phương Đông.
Bên trong di tích cố đô Huế mang đặc điểm gì nổi bật?
– Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm Thành là địa điểm chính trong cố đô Huế, được bố trí đăng đối xuyên suốt trên một trục Nam – Bắc. Hệ thống thành quách, cung điện ở đây có sự kết hợp hài hòa giữa tinh hoa kiến trúc phương Đông và Tây, được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú với núi Ngự Bình, dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh…
– Xa xa về phía Tây của Kinh thành, hai bên bờ sông Hương, lăng tẩm của các vua Nguyễn mang một phong thái hoàn toàn riêng biệt. Ngày nay, cố đô Huế vẫn còn lưu giữ những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam.
Quần thể di tích Cố đô Huế là di sản văn hóa thế giới theo tiêu chí số 4, đã hội đủ các yếu tố:
- Tiêu biểu cho những thành tựu nghệ thuật độc đáo, những kiệt tác do bàn tay con người tạo dựng.
- Có giá trị to lớn về mặt kỹ thuật xây dựng, nghệ thuật kiến trúc trong một kế hoạch phát triển đô thị hay một chương trình làm đẹp cảnh quan tại một khu vực văn hoá của thế giới;
- Một quần thể kiến trúc tiêu biểu của một thời kỳ lịch sử quan trọng.
- Kết hợp chặt chẽ với các sự kiện trọng đại, những tư tưởng hay tín ngưỡng có ảnh hưởng lớn, hay với các danh nhân lịch sử.
2. Đô thị cổ Hội An là di sản văn hóa thế giới lâu đời của nước ta sau Huế:
– Phố cổ Hội An được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Thế giới tại Hội nghị lần thứ 23 Ủy ban Di sản Thế giới tại Marrakesh, Morocco, ngày 01/12/1999.
– Hội An là một thị xã cổ của người Việt, nằm bên bờ sông Thu Bồn thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30km về phía Nam.
Lịch sử về thương cảng Hội An ngày ấy và di sản văn hóa Hội An ngày nay:
– Khi xưa nơi đây đã có một thời nổi tiếng trên thương trường quốc tế với tên gọi Faifoo mà các thương nhân Nhật Bản, Trung Quốc, Bồ Đào Nha, Italia… đã biết đến từ thế kỷ 16, 17.
- Thời đó, thương cảng Hội An đã thịnh vượng và là trung tâm buôn bán lớn của vùng Đông Nam Á, một trong những trạm đổ chính của thương thuyền vùng Viễn Đông.
- Là một kiểu cảng thị truyền thống Đông Nam Á duy nhất ở Việt Nam và hiếm có trên thế giới, Hội An giữ được gần như nguyên vẹn hơn một nghìn di tích kiến trúc như phố xá, nhà cửa, hội quán, đình, chùa, miếu, nhà thờ tộc, giếng cổ, mộ cổ,….
- Các kiến trúc vừa có sắc thái nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, vừa thể hiện sự giao lưu hội nhập văn hóa với các nước phương Đông và phương Tây.
– Trải qua nhiều thế kỷ, các món ăn truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng vẫn được lưu giữ, bảo tồn cùng với bao thế hệ người dân phố cổ. Hội An còn có một môi trường thiên nhiên trong lành, êm ả với những ngôi làng nhỏ ngoại ô xinh xắn, nơi phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống như mộc, làm đồ đồng, gốm…
3. Di tích Mỹ Sơn:
– Khu Di tích Thánh địa Mỹ Sơn với hơn 70 công trình kiến trúc bằng gạch đá, được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Thế giới tại Hội nghị lần thứ 23 Ủy ban Di sản Thế giới tại Marrakesh, Morocco ngày 01/12/1999 với tiêu chí là điển hình nổi bật về sự giao lưu văn hóa với sự hội nhập vào văn hóa bản địa, và tiêu chí phản ánh sinh động tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa Chămpa trong lịch sử văn hóa Đông Nam Á.
– Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Đây là tổ hợp nhiều đền đài Chămpa nằm trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh là đồi núi.
Di sản văn hóa Thánh địa Mỹ Sơn được xây dựng và ảnh hưởng từ văn hóa nào?
– Mỹ Sơn là thánh địa Ấn Độ giáo của Vương quốc Chămpa do Vua Bhadravarman cho xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ thứ 4 để thờ thần Siva. Các triều vua sau đó đều cho tu sửa các đền tháp cũ và xây dựng đền tháp mới để thờ các vị thần. Thánh địa là nơi tổ chức cúng tế và là nơi tập trung các lăng mộ của các vị hoàng thân quốc thích của vương triều.
– Khu đền tháp Mỹ Sơn được phát hiện vào năm 1885. Trong số 225 di tích Chăm được phát hiện tại Việt Nam, riêng Mỹ Sơn có khoảng 70 đền tháp, 32 bia ký tồn tại ở dạng này hay dạng khác.
– Mặc dù có sự tiếp nhận sâu sắc văn hóa Ấn Độ, nhưng trong quá trình phát triển, tính bản địa ngày càng đậm nét và tính dân tộc ngày càng khẳng định đã tạo cho loại hình nghệ thuật điêu khắc Chăm ở Mỹ Sơn vẻ độc đáo, sức hẫp dẫn kỳ lạ, thể hiện sức sống mãnh liệt của con người với nội tâm lúc bay bổng sảng khoái, lúc trầm tĩnh ưu tư, lúc trăn trở day dứt…
4. Khu Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long Hà Nội:
– Khu Di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội được UNESCO đưa vào Danh sách Di sản Văn hóa Thế giới ngày 31/7/2010.
– Khu di tích trung tâm Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội có tổng diện tích 18,395 ha, bao gồm: khu khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và các di tích còn lại trong khu di tích Thành cổ Hà Nội như cột cờ Hà Nội, Đoan Môn, điện Kính Thiên, nhà D67, Hậu Lâu, Bắc Môn, tường bao và 8 cổng hành cung thời Nguyễn.
Kiến trúc, giá trị, lịch sử hình thành nên Hoàng thành Thăng Long hiện tại:
– Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long – Hà Nội. Đây là công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt Nam.
– Giá trị của khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội thể hiện ở chỗ nó gần như là một “bộ lịch sử sống” chảy suốt theo cả chiều dài lịch sử hơn 10 thế kỷ của Thăng Long- Hà Nội. Kể từ thành Đại La thời tiền Thăng Long đến thời đại ngày nay, Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội đã trải qua khá nhiều thay đổi, nhưng trung tâm của Hoàng thành, đặc biệt là Tử Cấm Thành thì gần như không thay đổi. Tại đây, các nhà khảo cổ học đã khai quật được một số lượng lớn đồ gốm sứ là những vật dụng dùng hàng ngày trong hoàng cung qua nhiều thời kỳ.
– Ngoài ra, nhiều tiền đồng, đồ gốm sứ của Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Á… được tìm thấy ở đây là bằng chứng cho thấy Thăng Long đã từng là trung tâm giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực và tiếp nhận những giá trị tinh hoa của nhân loại.
5. Thành Nhà Hồ – Giá trị di sản văn hóa thế tồn tại trên thành lũy bằng đá:
– Di tích Thành nhà Hồ (tỉnh Thanh Hóa) được UNESCO đưa vào Danh mục Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới vào ngày 27/6/2011, tại Kỳ họp lần thứ 35 Ủy ban Di sản Thế giới ở Paris, Pháp.
– Thành nhà Hồ là tòa thành bằng đá độc đáo nằm giữa vùng đồng bằng lưu vực sông Mã và sông Bưởi, thuộc địa phận huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Đây là kinh thành của nước Việt Nam từ năm 1398 đến 1407 do Hồ Quý Ly – lúc bấy giờ là tể tướng dưới triều đại nhà Trần – cho xây dựng vào năm 1397.
Với kỹ thuật xây dựng và kiến trúc từ đá, di sản văn hòa này còn lại gì?
– Năm 2005, đoàn khảo sát Nhật Bản đã dùng máy móc hiện đại đo đạc rồi công bố số liệu như sau:
- Cạnh Nam: 877,1m;
- Cạnh Bắc:877,0m;
- Cạnh Đông: 879,3m;
- Cạnh Tây: 880m.
- Như vậy chúng có độ lớn vào khoảng 877m cạnh Đông Tây và 880m cạnh Nam Bắc.
Chúng gần như một hình vuông chỉ có điều chiều Nam Bắc dài hơn chiều Đông Tây khoảng 3m. Tuy nhiên dù đã đưa ra con số chính xác nhưng các chuyên gia Nhật Bản lại không cho biết quy tắc đo.
– Thành Nhà Hồ là công trình kỳ vĩ bởi kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn độc đáo có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong thời kỳ cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15.
– Cận cảnh một đoạn tượng thành nội còn nguyên vẹn. Thành Nhà Hồ hiện được coi là tòa thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong rất ít còn lại trên thế giới.
– Đây là một trong số ít các di tích kinh thành chưa chịu nhiều tác động của quá trình đô thị hóa, cảnh quan và quy mô kiến trúc còn được bảo tồn gần như nguyên vẹn cả trên mặt đất và trong lòng đất ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Tiếp đến, là hai di sản thuộc về thiên nhiên lớn trên Thế giới:
Di sản thiên nhiên thế giới gồm:
- Các cấu tạo tự nhiên (natural features): bao gồm các thành tạo vật lý hoặc sinh học hoặc các nhóm có thành tạo thuộc loại đó mà, xét theo quan điểm thẩm mỹ hoặc khoa học, có giá trị nổi tiếng toàn cầu.
- Các thành tạo địa chất và địa văn (geological and phystographical formations) và các khu vực được khoanh vùng: chính xác làm nơi cư trú cho các loài động vật và thảo mộc bị đe dọa mà, xét theo quan điểm khoa học hoặc bảo tồn, có giá trị nổi tiếng toàn cầu.
- Các di chỉ tự nhiên (natural sites) hoặc các khu vực tự nhiên: đã được khoanh vùng cụ thể mà, xét theo quan điểm khoa học, bảo tồn hoặc vẻ đẹp thiên nhiên, có giá trị nổi tiếng toàn cầu.
Vịnh Hạ Long với các hang động, vùng vịnh hấp dẫn du khách:
– Không chỉ là di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận 2 lần (năm 1994 và 2000), vịnh Hạ Long còn được bình chọn là một trong 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới mới và luôn nằm trong danh sách những vịnh đẹp nhất trên thế giới cho đến nay.
– Vịnh Hạ Long nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Đồn, vịnh Hạ Long có tổng diện tích 1553 km2 với 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Vùng Di sản được UNESCO công nhận có diện tích 434 km2 gồm 775 đảo, như một hình tam giác với ba đỉnh là đảo Đầu Gỗ (phía Tây), hồ Ba Hầm (phía Nam) và đảo Cống Tây (phía Đông).
– Là nơi chứa đựng những dấu tích quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển lịch sử trái đất, là cái nôi cư trú của người Việt cổ, đồng thời là tác phẩm nghệ thuật tạo hình vĩ đại của thiên nhiên với sự hiện diện của hàng nghìn đảo đá muôn hình vạn trạng cùng nhiều hang động kỳ thú tạo thành một quần thể vừa sinh động vừa huyền bí.
Vịnh Hạ Long nổi bật với hệ thống đảo đá và hang động tuyệt đẹp:
– Đảo ở Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở vùng phía Đông Nam vịnh Bái Tử Long và vùng phía Tây Nam vịnh Hạ Long. Quá trình Karst bào mòn, phong hóa tạo ra một Hạ Long độc nhất vô nhị trên thế giới.
– Bên cạnh đó, vịnh Hạ Long còn là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh thái điển hình cùng hàng nghìn loài động thực vật phong phú, đa dạng. Nơi đây còn gắn liền với những giá trị văn hóa – lịch sử hào hùng của dân tộc. Đến Hạ Long, du khách cũng sẽ bị cuốn hút bởi vẻ đẹp bình dị và những giá trị văn hóa phi vật thể toát ra từ cuộc sống của những ngư dân tại các làng chài.
– Trong tiếng Hán-Việt, “Hạ” mang nghĩa giảm, còn “Long” có nghĩa là rồng. “Hạ Long” theo nghĩa đen có nghĩa là “vịnh rồng hạ xuống”, kết hợp giữa thần thoại cổ và lịch sử Việt.
– Trong Tiếng Anh, có hai cách sử dụng từ là “Vietnam” và “Viet Nam”. Hạ Long cũng vậy, cách dùng từ “Halong” phổ biến hơn thông qua truyền miệng do nhận thức đã tồn tại lâu dài trong khi “Ha Long” vẫn là tên gọi chính thức của Vịnh.
Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng:
– Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng được UNESCO ghi danh là Di sản Thiên nhiên Thế giới tại Hội nghị lần thứ 27 Ủy ban Di sản Thế giới tại Paris, Pháp ngày 03/7/2003.
– Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng thuộc địa phận các huyện Quảng Ninh, Bố Trạch, Tuyên Hóa và Minh Hóa tỉnh Quảng Bình có diện tích khoảng 200.000 ha. Bên cạnh giá trị về lịch sử địa chất, địa hình, địa mạo, Phong Nha – Kẻ Bàng còn được thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho những cảnh quan kì bí, hùng vĩ.
Phong Nha – Kẻ Bàng được ví như một bảo tàng địa chất khổng lồ có giá trị và mang ý nghĩa toàn cầu:
– Các giai đoạn kiến tạo quan trọng và các pha chuyển động đứt gãy, phối tảng, uốn nếp của vỏ trái đất từ 400 triệu năm trước đã tạo ra các dãy núi trùng điệp và các bồn trầm tích bị sụt lún.
– Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng còn ẩn chứa bao điều bí ẩn của tự nhiên với một hệ thống hang động hùng vĩ như những lâu đài lộng lẫy trong lòng núi đá vôi được tạo tác từ hàng triệu năm trước.
- Tại đây, vào tháng 4 năm 2009, đoàn thám hiểm thuộc Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh đã phát hiện và công bố hang Sơn Đoòng là hang động lớn nhất thế giới (cao 200m, rộng 150m, dài ít nhất 8,5km).
- Vườn quốc gia còn có hệ thống động thực vật đa dạng, trong số đó có nhiều loài quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới.
Đa dạng về mặt sinh học trên đảo:
– Về thực vật: Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng có 8 kiểu thảm thực vật. Các cuộc điều tra khảo sát ban đầu đã ghi nhận được khoảng 2.500 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó có 208 loài lan và nhiều loài quý hiếm có tên trong sách đỏ Việt Nam và sách đỏ thế giới.
– Về động vật: Khu Động Phong Nha bao gồm những sinh cảnh cực kỳ quan trọng cho các loài linh trưởng có nguy cơ bị tiêu diệt và những loài thú lớn đã được liệt kê trong sách đỏ của IUCN 1996. Sơ bộ đã ghi nhận được 1074 loài động vật có xương sống
Sau cùng, là di sản hỗn hợp ( thiên nhiên và văn hóa thế giới):
Trong đó:
Di sản văn hóa thế giới là di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh tiêu biểu của Việt Nam có giá trị nổi bật toàn cầu về văn hóa được UNESCO ghi vào Danh mục Di sản thế giới.
Di sản thiên nhiên thế giới là di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh tiêu biểu của Việt Nam có giá trị nổi bật toàn cầu về thiên nhiên được UNESCO ghi vào Danh mục Di sản thế giới.
Tràng An – Di sản thế giới kép đầu tiên và duy nhất ở khu vực Đông Nam Á:
– Quần thể Danh thắng Tràng An minh chứng cho các giai đoạn cuối cùng của quá trình tiến hóa trong môi trường khí hậu nhiệt đới ẩm. Đây là di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận.
– Với diện tích 6.172 ha nằm ở khu vực ranh giới giữa huyện Hoa Lư với các huyện Gia Viễn, Nho Quan, thị xã Tam Điệp và thành phố Ninh Bình, quần thể danh thắng Tràng An bao gồm các khu vực liền kề nhau là di tích cố đô Hoa Lư, quần thể hang động Tràng An, khu danh thắng Tam Cốc – Bích Động và rừng nguyên sinh đặc dụng Hoa Lư.
Mang vẻ đẹp nổi bật toàn cầu và kiến tạo địa chất độc đáo qua hàng trăm triệu năm:
– Nằm trên bờ phía Nam của đồng bằng sông Hồng, Tràng An là một cảnh quan núi đá vôi ngoạn mục tạo dựng với rất nhiều thung lũng, một số chìm trong nước, và bao quanh bởi những vách đá dốc, gần như thẳng đứng.
– Tại đây, qua việc khám phá một số hang động cao nhất, người ta đã phát hiện những bằng chứng khảo cổ học liên quan đến hoạt động của con người có niên đại khoảng 30.000 năm. Những vết tích này minh họa cho sự chiếm đóng tập trung của con người săn bắn – hái lượm và sự thích ứng của họ đối với sự biến đổi khí hậu và môi trường. Khu vực Di sản bao gồm Hoa Lư – cố đô của Việt Nam (thế kỷ thứ X và XI), đền, chùa, những cánh đồng lúa, làng mạc và những nơi linh thiêng.
– Đến Tràng An, du khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi hiện ra trước mắt là bức tranh thiên nhiên sơn thủy hữu tình với hệ thống núi đá vôi và hang động tự nhiên đa dạng. Được ví như “Hạ Long trên cạn”, quần thể danh thắng Tràng An hấp dẫn bởi hệ thống động xuyên thủy nối liền các thung ngập nước như một trận đồ bát quái vừa kỳ ảo vừa biến hóa khôn lường.
– Bên cạnh đó, quần thể danh thắng Tràng An còn có nhiều điểm du lịch văn hóa hấp dẫn khác như: cố đô Hoa Lư, khu núi chùa Bái Đính, các đình, đền, chùa,….
Sự đa dạng về di sản văn hóa phi vật thể:
– Di sản văn hóa phi vật thể (tiếng Anh: Intangible cultural heritage) là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác bao gồm lễ hội, lối sống, bí quyết truyền nghề, văn hóa ẩm thực, trang phục truyền thống.
– Ở cấp độ toàn cầu, Di sản văn hóa phi vật thể có danh sách được UNESCO đưa ra để ghi danh giá trị của các di sản văn hóa phi vật thể trên thế giới. Danh sách này được bắt đầu năm 2001 với 19 di sản, năm 2003 danh sách có thêm 28 di sản. Danh sách tiếp theo được lập vào ngày 25 tháng 11 năm 2005.
Nhã nhạc cung đình Huế:
- Là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong năm của các triều đại nhà Nguyễn của Việt Nam.
- Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên:
- Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 15/11/2005.
- Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ phận sau: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến nước…),
- Những địa điểm tổ chức các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên,…)
Dân ca Quan họ là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo tồn:
- Dân ca quan họ ở Bắc Giang và Bắc Ninh là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam.
- Nó còn được gọi là dân ca quan họ Kinh Bắc do được hình thành và phát triển ở vùng văn hóa Kinh Bắc xưa, đặc biệt là khu vực ranh giới hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh ngày nay.
- Ngày 30/9/2009, UNESCO đã chính thức công nhận Quan họ là di sản văn hóa phi vật thể của thể giới.
Ca trù:
- Hát ca trù là một bộ môn nghệ thuật truyền thống ở phía Bắc Việt Nam kết hợp hát cùng một số nhạc cụ dân tộc. Ca trù thịnh hành từ thế kỷ 15, từng là một loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và trí thức yêu thích.
- Ca trù là một sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc Ngày 1/10/2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28/9 tới ngày 2/10/2009), ca trù đã được công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Hội Gióng:
- Được coi là lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm ở nhiều địa phương khác nhau tại Hà Nội nhằm tưởng nhớ và ca ngợi chiến công của người anh hùng truyền thuyết Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
- Năm 2010, hội Gióng ở đền Phù Đổng (Gia Lâm) và đền Sóc (huyện Sóc Sơn) đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Hát xoan Phú Thọ:
- Hát Xoan còn được gọi là Khúc môn đình (hát cửa đình), là lối hát thờ thần, tương truyền có từ thời các vua Hùng. Thuở xa xưa, người Văn Lang tổ chức các cuộc hát Xoan vào mùa xuân để đón chào năm mới.
- Năm 2011, hát xoan đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương:
- Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một loại hình tín ngưỡng dân gian được lưu truyền lâu đời ở Việt Nam mà trọng tâm là tỉnh Phú Thọ.
- Loại tín ngưỡng này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (đợt 1) và UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2012.
Thể loại đờn ca tài tử được xem là di sản văn hóa phi vật thể từ năm 2014:
- Đờn ca tài tử Nam bộ là một dòng nhạc dân tộc của Việt Nam đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể vào năm 2013. Đờn ca tài tử hình thành và phát triển từ cuối thế kỉ 19, bắt nguồn từ nhạc lễ, Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian 14.
- Ví giặm Nghệ Tĩnh Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân ca chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của người dân 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thuộc miền Trung Việt Nam. Dân ca ví giặm đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể ngày 27/11/2014 tại Paris (Pháp).
Các di sản của chúng ta vừa khai thác vừa cần được bảo tồn:
– Trong những năm qua, công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu khả quan, góp phần bảo vệ, lưu giữ, trao truyền các giá trị văn hóa của quá khứ, đồng thời, khai thác tốt phương diện kinh tế của di sản, đóng góp hiệu quả cho ngân sách quốc gia.
– Một dân tộc muốn phát triển đi lên không thể không giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa quý giá từ quá khứ. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển đòi hỏi sự sáng tạo không ngừng, sự chủ động linh hoạt vận dụng các nguyên tắc khoa học để lựa chọn phương án bảo tồn tối ưu, làm sao vừa khai thác được tiềm năng kinh tế của di sản, vừa giữ gìn được các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật của chúng, đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững của di sản.
Tổng hợp từ các nguồn tin.